Lịch sử Nhà_Nguyên

Bài chi tiết: Lịch sử Mông Cổ

Lịch sử triều Nguyên thông thường có thể phân thành hai giai đoạn, năm 1206 Thiết Mộc Chân thống nhất Mông Cổ, lập quốc tại Mạc Bắc, định quốc hiệu là Đại Mông Cổ Quốc, đến năm 1271 Hốt Tất Liệt kiến đô tại Hán địa, tức khu vực cư dân Hán, cải quốc hiệu thành Đại Nguyên, tổng cộng 65 năm, gọi là thời kỳ Đại Mông Cổ Quốc, hay Đế quốc Mông Cổ. Giai đoạn thứ hai kéo dài cho đến năm 1368 khi Nguyên Huệ Tông đào thoát từ Trung Quốc về chính quê hương Mông Cổ bây giờ của họ, kéo dài tổng cộng 97 năm, là giai đoạn tồn tại thực sự của triều Nguyên. Sau khi Nguyên Huệ Tông đào thoát về Mông Cổ, vẫn duy trì quốc hiệu Đại Nguyên, đến năm 1402 thì Quỷ Lực Xích sát hại Thuận Thiên Đế Khôn Thiếp Mộc Nhi, cải quốc hiệu thành Thát Đát, tổng cộng kéo dài 34 năm, gọi là thời kỳ Bắc Nguyên. Do Đế quốc Mông Cổ, triều Nguyên và Bắc Nguyên có quan hệ thừa kế liên tục, do vậy bài viết giới thiệu cả ba thời kỳ.[1]

Thống nhất Mông Cổ

Thành Cát Tư Hãn là người lập quốc Đế quốc Mông Cỏ, sau được truy tôn là Nguyên Thái Tổ.

Thời Liêu, các bộ lạc trên thảo nguyên Mông Cổ do triều đình Liêu cai quản. Sau khi Kim diệt Liêu, thừa dịp quân Kim nam hạ tiến công Tống mà không chú ý tới phía bắc, Hợp Bất Lặc Hãn kiến lập Mông Ngột Quốc, tức giai đoạn đầu của quốc gia Mông Cổ, sau đó người Mông Cổ thường xâm nhập biên cảnh của Kim. Sau khi Hợp Bất Lặc mất, Yêm Ba Hài Hãn trở thành đại hãn, song sau đó bị người Tháp Tháp Nhi bán cho triều đình Kim, rồi bị Kim Hi Tông hành quyết, sự kiện này khởi nguồn cho mối thù của người Mông Cổ với Kim. Sau khi Kim Chương Tông mất, đầu thế kỷ 13, triều Kim dưới quyền Hoàn Nhan Vĩnh Tế dần suy lạc, Thiết Mộc Chân thuộc Khất Nhan bộ của Mông Cổ bắt đầu thống nhất thảo nguyên Mông Cổ. Trước sau dưới viện trợ quân sự của thủ lĩnh Khắc Liệt bộ là Vương Hãn và thủ lĩnh Trát Đáp Lan bộ là Trát Mộc Hợp, Thiết Mộc Chân đánh bại người Miệt Nhi Khất, lực lượng dần lớn mạnh. Năm 1189, sau tranh đoạt kịch liệt, Thiết Mộc Chân được quý tộc Khất Nhan bộ tôn làm đại hãn của bộ lạc. Tuy nhiên, việc bộ tộc của Thiết Mộc Chân dần lớn mạnh làm tổn hại đến địa vị của Trát Mộc Hợp trên thảo nguyên, do vậy Trát Mộc Hợp liên hiệp với các bộ tộc như Thái Xích Ô, hợp binh tiến công Thiết Mộc Chân. Trát Mộc Hợp tạm thời chiến thắng, song vì bạo ngược nên các thủ lĩnh bộ lạc dưới quyền bất mãn, bộ chúng hướng tâm sang Thiết Mộc Chân, lực lượng của Thiết Mộc Chân từng bước lớn mạnh. Năm Thừa An thứ 1 (1196), bộ tộc Tháp Tháp Nhi phản Kim, Hoàng đế Kim Chương Tông phái Thừa tướng Hoàn Nhan Tương đem quân chinh thảo. Thiết Mộc Chân liên hiệp với Khắc Liệt Bộ, lấy danh nghĩa báo thù, đánh tan Tháp Tháp Nhi bộ. Sau chiến tranh, triều đình Kim phong cho Thiết Mộc Chân chức Củ quân thống lĩnh, do vậy ông có thể sử dụng danh nghĩa quan viên của Kim để hiệu lệnh bộ chúng Mông Cổ. Năm Khánh Nguyên thứ 6 (1200), Thiết Mộc Chân và Vương Hãn hội quân, đại thắng trước liên quân Miệt Nhi Khất-Thái Xích Ô. Năm Gia Thái thứ 1 (1201), Thiết Mộc Chân đánh bại liên quân 11 bộ tộc dưới quyền Trát Mộc Hợp. Năm Gia Thái thứ 2 (1202), liên quân Thiết Mộc Chân và Vương Hãn đánh bại liên quân của Trát Mộc Hợp cùng người Nãi Man, Thái Xích Ô, Tháp Tháp Nhi, Miệt Nhi Khất..Cuối cùng, Thiết Mộc Chân bình định cao nguyên Mông Cổ, thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, vào mùa xuân năm 1206, các quý tộc Mông Cổ tại đầu nguồn sông Oát Nan (nay là sông Onon) lần đầu triệu tập Đại hội Khuruldai, Thiết Mộc Chân nhận xưng hiệu Thành Cát Tư Hãn, kiến quốc Đại Mông Cổ Quốc, sau này được tôn xưng là Nguyên Thái Tổ.[12].

Phạt Kim và khoách trương

Kim và người Mông Cổ có thù truyền thế[chú thích 4], Thành Cát Tư Hãn có ý phạt Kim báo thù, tuy nhiên Tây Hạ và Kim liên minh, nhằm tránh bị Tây Hạ khiên chế nên Mông Cổ ba lần suất quân (1205, 1207, 1209-1210) tiến công, buộc Tây Hạ Tương Tông xưng thần. Năm 1210, Thành Cát Tư Hãn và Kim đoạn giao, sang năm sau Chiến tranh Mông-Kim bùng phát. Trong Chiến dịch Dã Hồ Lĩnhtrận Cối Hà Bảo, quân Mông Cổ đại phá 45 vạn quân Kim, sau đó đánh vào khu vực Hoa Bắc và tiến hành đồ sát hàng loạt thành trì. Năm 1214, quân Mông Cổ bao vây thủ đô Trung Đô (nay là Bắc Kinh) của Kim, Kim Tuyên Tông buộc phải xưng thần. Năm 1215, quân Mông Cổ nam hạ công chiếm Trung Đô, đồng thời có được danh tướng Da Luật Sở Tài, nhân vật này có công lớn trong việc trợ giúp người Mông Cổ củng cố Hoa Bắc. Năm 1217, Thành Cát Tư Hãn do Tây chinh Khwarezm nên mệnh cho Mộc Hoa Lê thống lĩnh Hán địa, phong người này làm "Thái sư quốc vương"[14], mệnh cho Mộc Hoa Lê tiếp tục tiến công Kim. Nhằm củng cố Hán địa, Mộc Hoa Lê thu hàng thế lực tự vệ địa phương như của Sử Thiên Trạch, Trương Nhu, Nghiêm ThựcTrương Hoành, sử gọi là "Hán tộc tứ đại thế hầu", về sau họ cũng phò tá Hốt Tất Liệt kiến lập triều Nguyên[13]. Mộc Hoa Lê thông qua chiến tranh khiến cho cương vực Kim chỉ còn lại Hà Nam và Quan Trung, đồng thời năm 1231 ông phái binh tiến công Cao Ly, khiến triều đình Cao Ly đào thoát đến đảo Giang Hoa[12]

Ở phía tây, để lập tuyến đường thông sang phương tây, ngay từ năm 1209-1210 Mông Cổ đã buộc người Úy Ngột Nhi tại đông bộ Tân Cương và người Cáp Lạt Lỗ tại thung lũng sông Y Lê quy thuận. Trong khi Kim thiên đô và tiến đến diệt vong, Khwarezm dưới quyền Muhammad II quật khởi tại Trung Á, đại thần địa phương của nước này tại Otrar là Inalchuq hai lần đồ sát thương đội Mông Cổ đồng thời làm nhục sứ thần Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn bèn quyết tâm phát động Tây chinh lần thứ nhất. Năm 1218, tướng Mông Cổ là Triết Biệt giết Hoàng đế Tây Liêu Khuất Xuất Luật, công chiếm khu vực Tarim. Tháng 6 năm sau Thành Cát Tư Hãn đích thân đem quân chủ lực Mông Cổ gồm 10 vạn người Tây chinh Khwarezm. Muhammad II không kháng cự lại nổi quân Mông Cổ, lo sợ nên đào thoát, quân Mông Cổ đồ sát các thành trấn, và đến năm 1221 thì Khwarezm diệt vong. Thành Cát Tư Hãn mệnh Tốc Bất Đài và Triết Biệt truy sát Muhammad II, Muhammad II cuối cùng mất tại biển Caspia. Con trai của Muhammad II là Jalal ad-Din anh dũng kháng địch trong trận Parwan, song cuối cùng phải đào thoát đến Ấn Độ, năm 1224 phục quốc tại Tabriz. Năm 1230, Jalal ad-Din bị tướng quân Mông Cổ Xước Nhi Mã Hãn công diệt[12]. Tốc Bất Đài và Triết Biệt cuối cùng vào năm 1222 cùng Tát Mã Nhĩ Hãn xuất phát đi qua bắc bộ cao nguyên Iran, tiến công các quốc gia Nam Kavkaz rồi vượt dãy Kavkaz đến Khâm Sát (miền nam Nga), trong khoảng thời gian đó công chiếm không ít quốc gia. Trong trận sông Kalka năm 1223 tại lãnh thổ nay thuộc Ukraina, quân Mông Cổ đánh tan liên quân các quốc gia Rus Kiev và Khâm Sát, đồng thời tiến quân theo hướng tây đến sông Dnister thuộc miền tây Ukraina ngày nay, sau chuyển sang vây đánh Kiev, rồi trở về phía đông. Tháng 9 năm 1223, quân Mông đang tiến công Volga Bulgaria tại trung thượng du sông Volga thì vượt sông về Trung Á. Thành Cát Tư Hãn đem lãnh thổ mới mở rộng phân phong cấp cho trưởng tử Truật Xích, thứ tử Sát Hợp Đài và tam tử Oa Khoát Đài, tứ tử Đà Lôi lĩnh Mông Cổ bản thổ, Oa Khoát Đài trở thành người kế thừa đại hãn. Năm 1225, sau khi Mông Cổ hồi quân, do Tây Hạ không phối hợp Tây chinh, Thành Cát Tư Hãn suất quân nhằm tiêu diệt Tây Hạ. Năm 1227, Thành Cát Tư Hãn bệnh mất, Đà Lôi giám quốc.[12]

Hãn hệ chuyển di

Trong trận Legnica năm 1241, Mông Cổ đánh bại liên quân Ba Lan-La Mã Thần thánh.

Đà Lôi giám quốc hai năm, trong Đại hội Khuruldai năm 1229, Oa Khoát Đài được tôn làm Đại hãn của Mông Cổ, sau này được tôn xưng là Nguyên Thái Tông. Năm 1231, Oa Khoát Đài Hãn suất quân nam chinh triều Kim, đồng thời mệnh Đà Lôi từ Hán Trung mượn đường Nam Tống theo Hán Thủy tiến công Biện Kinh, năm sau Đà Lôi trong trận Tam Phong Sơn tại Hà Nam đã đánh tan quân Kim. Năm 1234, liên quân Mông-Tống liên hiệp công phá Thái châu, Kim Ai Tông tự sát, triều Kim diệt vong. Mặc dù Nam Tống phát động Đoan Bình nhập Lạc nhằm thu phục đất Hà Nam, song cuối cùng toàn bộ khu vực Hoa Bắc bị Mông Cổ chiếm lĩnh. Năm 1235, Oa Khoát Đài Hãn định đô tại Cáp Lạp Hòa Lâm (Karakorum, nay thuộc Mông Cổ), sau đó suất quân báo thù Nam Tống, cướp bóc khu vực Lưỡng Hoài rồi về bắc. Nhằm đề phòng Hán nhân thế hầu tại Hoa Bắc làm phản, Mông Cổ phái Tham mã xích quân tiến trú Hán địa; tiến hành hai lần điều tra nhân khẩu, đem một nửa số người Hán phân phong cho công thần Mông Cổ[13]. Do nhu cầu về nhân tài trị lý quốc gia, Oa Khoát Đài Hãn tiếp thu kiến nghị của Da Luật Sở Tài, vào năm 1238 mệnh Truật Hốt Đức và Lưu Trung tổ chức khoa cử, sử xưng Mậu Tuất tuyển thí. Kỳ khảo thí này chọn được các danh sĩ như Dương Hoán.[15][16].

Tại phía tây, năm 1235 Oa Khoát Đài Hãn mệnh con cả của Truật XíchBạt Đô, cùng Quý DoMông Kha, Tốc Bất Đài phát động Tây chinh lần thứ hai, sử xưng Bạt Đô tây chinh, tổng chỉ huy là Bạt Đô và Tốc Bất Đài. Từ năm 1236 đến 1242, quân Mông Cổ công chiếm thảo nguyên Khâm Sát, các công quốc Rus Kiev, và các quốc gia Trung Đông Âu nay thuộc Hungary, Romania, Ba Lan, Litva, Séc, Slovakia, Nam Tư cũ, Bulgaria, và La Mã Thần thánh. Tháng 11 năm 1241, Oa Khoát Đài Hãn mất, Hoàng hậu Thoát Liệt Ca Na giám quốc. Tháng 3 năm 1246, trong Đại hội Khuruldai, con của Oa Khoát Đài là Quý Do trở thành đại hãn của Mông Cổ, sau này được tôn xưng là Nguyên Định Tông. Năm 1247, các bộ tộc Thổ Phồn quy phụ Mông Cổ, sử xưng Lương châu hội minh. Tháng 8 năm 1248, Quý Do mất, Hoàng hậu Hải Mê Thất lập người trong tộc là Thất Liệt Môn giám quốc. Tuy nhiên, trong đại hội vào tháng 7 năm 1251, do Bạt ĐôNgột Lương Hợp Thai ra sức ủng hộ dòng Đà Lôi, khiến Thất Liệt Môn thuộc dòng Oa Khoát Đài để mất hãn vị. Mông Kha kế thừa hãn vị, sau được tôn xưng là Nguyên Hiến Tông[16]

Mông Kha sau khi tức vị vào năm 1252 thì tiến hành trung ương tập quyền hóa, tại Hán địa, Trung Á và Iran cho đặt trung thư tỉnh, phân khiển chư vương thuộc dòng Đà Lôi quản lý các khu vực, cho em là Hốt Tất Liệt tổng lĩnh Hán địa. Trong thời gian Hốt Tất Liệt thống trị Hán địa, ông sử dụng một lượng lớn quan lại và nho sĩ là người Hán, củng cố khu vực Hoa Bắc, đồng thời cùng Ngột Lương Hợp Thai đi vòng diệt Đại Lý vào năm 1253. Năm 1258, chính quyền họ Thôi tại Cao Ly kết thúc, Cao Ly trở thành nước phiên thuộc của Mông Cổ. Cùng năm đó, Mông Kha Hãn tuyên bố phân binh thành ba lộ nam chinh Nam Tống, Mông Kha Hãn suất quân tiến công Hợp Châu thuộc Tứ Xuyên (nay là Trùng Khánh), Hốt Tất Liệt tiến công Ngạc Châu thuộc Hồ Bắc (nay là Vũ Xương), Ngột Lương Hợp Thai từ Yến Dương thuộc Vân Nam (nay thuộc bắc bộ Lệ Giang, Vân Nam) qua An Nam nhằm tiến công Quảng Nam Tây lộ rồi tiến tiếp đến Kinh Hồ Nam lộ, tam quân có ý đồ hội hợp tại Hoa Trung rồi xuôi Trường Giang vây đánh Lâm An. Năm sau, Mông Kha Hãn chiến tử tại thành Điếu Ngư thuộc Hợp Châu, nhóm Hốt Tất Liệt đình chỉ nam chinh, về bắc đoạt vị[1]. Ở phía tây, Mông Kha Hãn phái em là Húc Liệt Ngột tây chinh Tây Á, sử xưng Mông Cổ tây chinh lần ba, năm 1256 Húc Liệt Ngột công diệt tổ chức ám sát Hồi giáo Hashshashin. Năm 1258, quân Tây chinh công chiếm Baghdad- lãnh địa cuối của vương triều Abbas Lưỡng Hà. Năm sau, quân Mông Cổ giành thắng lợi trước Vương triều Ayyub, năm 1260 chiếm lĩnh DamasAleppo. Tuy nhiên, Húc Liệt Ngột biết tin Mông Kha từ trần khi nam chinh Nam Tống thì lập tức suất đại quân về thủ đô tranh vị. Quân Mông Cổ lưu lại Tây Á chiến bại trong trận Ain Jalut tại Israel ngày nay trước vương triều Mamluk Ai Cập, Tây chinh lần ba kết thúc.[16]

Đại tai càn nguyên

"Nguyên Thế Tổ xuất liệp đồ" do họa gia thời Nguyên Lưu Quán Đạo vẽ năm Chí Nguyên thứ 17 (1280), trong đó người cưỡi ngựa đen là Hốt Tất Liệt.

Mông Kha Hãn từ trần, Hốt Tất Liệt lập tức hòa đàm với Nam Tống, về Hoa Bắc tranh đoạt hãn vị với em là A Lý Bất Ca tại Mông Cổ. Ngày 5 tháng 5 năm 1260, dưới sự ủng hộ của một bộ phận tông vương và đại thần Mông-Hán, Hốt Tất Liệt tự lập làm hoàng đế của Mông Cổ tại Khai Bình (sau gọi là Thượng Đô, nay thuộc huyện Đa Luân, Nội Mông), đặt niên hiệu là Trung Thống. Sau khi Hốt Tất Liệt đăng cơ không lâu, A Lý Bất Ca tại thủ đô Cáp Lạp Hòa Lâm triệu tập đại hội Khuruldai, được A Tốc Thai cùng các tông vương và đại thần khác lập làm đại hãn của Mông Cổ, đồng thời được ủng hộ từ các hãn quốc Khâm Sát, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài. Chiến tranh tranh đoạt hãn vị cuối cùng kết thúc vào ngày 21 tháng 8 năm 1264 khi A Lý Bất Ca đầu hàng, vị thế của Hốt Tất Liệt được đảm bảo[1]

Nhằm trở thành một hoàng đế của Trung Quốc, Hốt Tất Liệt cho thi hành Hán pháp, nội dung chủ yếu có cải nguyên kiến hiệu, năm 1267 Hốt Tất Liệt hãn thiên đô tới Trung Đô (nay là Bắc Kinh), kinh đô cũ của triều Kim, đồng thời mệnh Lưu Bỉnh Trung xây dựng thành Trung Đô. Năm 1272, Hốt Tất Liệt Hãn đổi Trung Đô thành Đại Đô (tiếng Đột Quyết là Khanbaliq, ý là đế đô), chuyển Thượng Đô thành bồi đô. Ngày 18 tháng 12 năm 1271, Hốt Tất Liệt hãn công bố "Kiến quốc hiệu chiếu", chọn ý "đại tai càn nguyên" trong "Dịch Kinh"[17], đổi quốc hiệu từ Đại Mông Cổ Quốc thành Đại Nguyên[18], kiến quốc triều Nguyên, tức Nguyên Thế Tổ. Năm 1260, triều Nguyên đặt trung thư tỉnh, đến năm 1263 thiết lập Xu mật viện, năm 1268 thiết lập Ngự sử đài. Triều Nguyên còn cho đặt "đại ty nông ty" đồng thời đề xướng nông nghiệp, thi hành chính sách Hán pháp như tôn Khổng sùng Nho đồng thời hết sức phát triển Nho học. Tuy nhiên, nhằm bảo lưu chế độ nguyên bản của Mông Cổ, cuối cùng triều Nguyên hình thành chế độ chính trị lưỡng nguyên Mông-Hán[1]. Nguyên Thế Tổ thông qua chiến tranh mà đạt được hãn vị của Mông Cổ, cuối cùng lại thành hoàng đế Trung Quốc, do ông chiếm hãn vị một cách bất hợp pháp và tôn sùng Hán pháp, khiến tông thất Mông Cổ không thừa nhận hãn vị của Hốt Tất Liệt. Trong số bốn hãn quốc lớn thì có ba hãn quốc không phụng mệnh lệnh của Hốt Tất Liệt, Đế quốc Mông Cổ hoàn toàn giải thể[chú thích 5].

Ban đầu, Nguyên Thế Tổ còn phải tập trung vào chiến tranh với A Lý Bất Ca và chỉnh đốn quốc nội, do vậy không rảnh để đối phó với Nam Tống, ông phái Hác Kinh đi đề xuất nội dung nghị hòa mang tính áp bức. Đương thời, Tống Cung Đế còn nhỏ tuổi, Tạ thái hậu buông rèm chấp chính, song đại quyền trong tay Giả Tự Đạo. Giả Tự Đạo khi xưa từng nói dối mình đánh lui quân Mông Cổ, nay lo bị lộ nên giam cầm Hác Kinh. Năm 1262, Nam Tống mốc nối với thế hầu Lý Thản, bùng phát nổi loạn Lý Thản. Sau khi bình định bạo loạn, Nguyên Thế Tổ kiên quyết phế bỏ Hán nhân thế hầu, cho người Mông Cổ trực tiếp quản lý sự vụ địa phương, đồng thời chuẩn bị chinh phạt Nam Tống[13]. Năm 1268, Nguyên Thế Tổ phát động chiến tranh diệt Tống, trước tiên phái Lưu ChỉnhA Truật suất quân tiến công Tương Dương, sử gọi là trận Tương Phàn. Năm 1274, quân Nguyên công hạ Tương Dương, tướng Lã Văn Hoán của Tống đầu hàng, sau đó Sử Thiên TrạchBá Nhan suất quân theo Hán Thủy nam hạ Trường Giang, mục tiêu là Kiến Khang. Năm 1275, hàng tướng Lã Văn Hoán suất liên quân thủy quân-lục quân Nguyên đánh tan thủy quân Nam Tống tại Vu Hồ, sử gọi là trận Đinh Gia Châu. Năm sau, quân Nguyên công hãm Lâm An, Tạ thái hậu và Tống Cung Đế đầu hàng quân Nguyên. Quân Nguyên dần công hạ các địa phương tại Hoa Nam, năm 1278 thì triều đình Nam Tống thoái đến Nhai Sơn thuộc Quảng Đông. Tháng 3 năm sau, Trương Hoằng Phạm công diệt hải quân Nam Tống trong Hải chiến Nhai Sơn, Lục Tú Phu ôm tiểu hoàng đế Triệu Bính nhảy xuống biển tự vẫn, Nam Tống mất. Triều Nguyên thống nhất khu vực Trung Quốc, kết thúc cục diện phân liệt kéo dài hơn 500 năm từ sau loạn An Sử thời Đường[1].

Triều Nguyên từng yêu cầu một số quốc gia hoặc khu vực xung quanh (gồm Nhật Bản, Đại Việt, Chiêm Thành, Miến Điện, Java) phải thần phục, gia nhập quan hệ triều cống của triều Nguyên, song bị cự tuyệt, Nguyên Thế Tổ do vậy xuất binh tiến công các quốc gia này, trong đó xâm nhập Nhật Bản là trứ danh nhất, quân Nguyên do Phạm Văn Hổ chỉ huy không thích hợp và gặp phải bão nên thất bại. Do triều đình Nguyên cần ban thưởng lượng lớn tiền của cho tông thất quý tộc, công thêm chi tiêu nhiều, tài chính dần căng thẳng, triều thần vì vấn đề tài chính mà phát sinh tranh chấp, phân liệt thành phái Nho thần chủ yếu gồm người Hán và người Mông Cổ Hán hóa như Hứa Hành, và phái lý tài chủ yếu gồm người Sắc Mục và người Hán như A Hợp Mã, Lô Thế VinhTang Ca. Phái Nho thần nhận định triều đình Nguyên cần phải tiết giảm kinh phí, giảm miến thuế thu. Phái lý tài thì nhận định Nam nhân (người Hán tại lãnh thổ Nam Tống cũ) còn tàng trữ lượng lớn tài vật, cần phải tịch thu để giải quyết vấn đề tài chính. Do Nguyên Thế Tổ tín nhiệm A Hợp Mã nên thiết lập thượng thư tỉnh để giải quyết vấn đề tài chính. Tuy nhiên, phái Nho thần lấy Thái tử Chân Kim vốn bị Hán hóa sâu sắc làm trung tâm, cùng đối kháng với A Hợp Mã, cuối cùng A Hợp Mã bị thích sát, song Thái tử Chân Kim lại bệnh mất. Nguyên Thế Tổ không tín nhiệm phái Nho thần, vẫn nhiệm dụng quan viên phái lý tài để giải quyết vấn đề tài chính, khiến tình hình tài chính xấu đi[19].

Bình định Tây Bắc

Bản đồ triều Nguyên và các hãn quốc thời Nguyên Vũ Tông, Hãn quốc Oa Khoát Đài do bị triều Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài phân chia mà diệt vong.

Nguyên Thế Tổ từ trần vào năm 1294, mặc dù Thái tử Chân Kim mất sớm song con thứ ba của Chân Kim là Thiết Mục Nhĩ được phong làm "hoàng thái tử bảo" đồng thời được trấn thủ Hòa Lâm (tức Karakorum). Sau đó, trong Đại hội Khuruldai, Thiết Mục Nhĩ được sự ủng hộ của nhóm trọng thần Bá Nhan và Ngọc Tích Thiếp Mộc Nhi, chiến thắng trước anh cả là Cam Ma Lạt và anh hai là Đáp Lạt Ma Bát Lạt mà kế vị, tức Nguyên Thành Tông. Nguyên Thành Tông chủ yếu là tuân thủ thận trọng pháp luật và quy tắc thời kỳ Nguyên Thế Tổ, tin dùng cháu là Hải Sơn (con của anh hai) trấn thủ Hòa Lâm để bình định loạn Hải Đô tại Tây Bắc, đồng thời hạ lệnh đình chỉ chinh phạt Nhật Bản và Đại Việt. Trên phương diện nội chính, Nguyên Thành Tông tập trung chỉnh đốn chính trị quốc nội, giảm miễn thuế một phần cho Giang Nam. Tuy nhiên, do Nguyên Thành Tông ban thưởng quá độ, tài sản trong quốc khố thiếu thốn. Tháng một năm 1307, Nguyên Thành Tông từ trần, do Thái tử Đức Thọ mất sớm nên Tả thừa tướng A Hốt Thai ủng hộ Hoàng hậu Bốc Lỗ Hãn và An Tây vương A Nan Đáp (tôn sùng Hồi giáo) giám quốc, đồng thời có ý để cho A Nan Đáp xưng đế. Em của Hải Sơn là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt và Hữu thừa tướng Cáp Lạt Cáp Tôn phát động Đại Đô chính biến. Họ xử trảm A Hốt Thai, khống chế cục thế Đại Đô, ủng hộ Hải Sơn xưng đế, tức Nguyên Vũ Tông. Hoàng hậu Bốc Lỗ Hãn và A Nan Đáp bị Nguyên Vũ Tông xử trảm, bộ hạ người Hồi của A Nan Đáp lui đến khu vực Thổ Lỗ Phồn tại Tây Vực[20].

Nguyên Vũ Tông sách phong cho Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt (sau là Nguyên Nhân Tông) là hoàng thái đệ, giao ước với nhau rằng dòng của Vũ Tông và dòng của Nhân Tông thay nhau xưng đế, tức Vũ-Nhân chi ước[20]. Thời kỳ Nguyên Vũ Tông, triều Nguyên gia phong Khổng Tử là "Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương"[21], đồng thời cấp cho gia tộc và đệ tử của Khổng Tử một số xưng hiệu. Nhằm giải quyết nguy cơ tài chính có từ thì kỳ Nguyên Thành Tông, Nguyên Vũ Tông cho lập 'Thường bình thương' để kiềm chế vật giá, hạ lệnh in rất nhiều tiền, song khiến tiền giấy mất giá trị nghiêm trọng. Ngoài ra, ông đưa Trung thư tỉnh vốn có quyền tuyên sắc và dụng nhân giao cho Thượng thư tỉnh. Năm 1311, Nguyên Vũ Tông do chìm đắm trong trụy lạc, uống rượu quá độ mà từ trần, Hoàng thái đệ Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt kế vị, tức Nguyên Nhân Tông[20].

Tại phía tây bắc, ngay từ thời kỳ Nguyên Thế Tổ, do vị thế đại hãn của Thế Tổ không được bốn hãn quốc lớn thừa nhận nên Hải Đô của Hãn quốc Sát Hợp Đài có ý chiếm đoạt hãn vị của Mông Cổ. Hải Đô quản lý khu vực Hiệp Mật Lập (nay ở phía đông nam của Ngạch Mẫn, Tân Cương) đồng thời hữu hảo với Hãn quốc Khâm Sát (hay Kim Trướng). Nhằm tránh việc bị Hải Đô đánh sau lưng khi nam chinh Nam Tống, Nguyên Thế Tổ giúp đỡ Bát Lạt đoạt được hãn vị của Sát Hợp Đài nhằm áp chế Hải Đô. Tuy nhiên vào năm 1268, Hải Đô cùng Bát Lạt và Khâm Sát hãn Mang Ca Thiếp Mộc Nhi lấy lý do Nguyên Thế Tổ Hán hóa quá độ, trái ngược với phép tắc của tổ tông, cùng tổ chức đại hội Khuruldai kết minh phản Nguyên bên sông Talas. Họ tôn Hải Sơn làm minh chủ, cùng phân chia Trung Á hành tỉnh, liên hiệp đối kháng triều Nguyên và Hãn quốc Y Nhi, sử gọi là loạn Hải Đô. Nguyên Thế Tổ phái Bá Nhan đem quân về phía bắc bình loạn, Hải Đô và Sát Hợp Đãi hãn Đốc Oa sử dụng phương thức du kích chiến. Năm 1287, liên quân Hải Đô thông đồng với chư vương trấn thủ Liêu Đông Nãi NhanCáp Đan tập kích Hòa Lâm, Nguyên Thế Tổ đích thân suất đại quân đánh bại họ, phái Ba Nhan, Ngọc Tích Thiếp Mộc Nhi và Lý Đình bình định Nãi Nhan tại Đông Bắc, chủ trì quân sự tại Tây Bắc. Năm 1289, Hải Đô lại tiến công Hòa Lâm, cuối cùng thế lực của Hải Đô bị đẩy đến phía tây dãy núi Altai. Cáp Đan tiến hành du kích chiến tại khu vực Liêu Đông-Cao Ly, đến năm 1292 thì bại vong[20]

Sau khi Nguyên Thành Tông tức vị, lệnh cho Hải Sơn tổng lĩnh chư quân tại Mạc Bắc. Năm 1301, liên quân Hải Đô bị Hải Sơn và Tấn vương Cam Ma Lạt đánh tan. Hải Đô từ trần sau chiến dịch, con là Sát Bát Nhi kế vị, Hãn quốc Oa Khoát Đài bị Đốc Oa khống chế. Năm 1303, do Đốc Oa chiến bại trước Khâm Sát hãn Thoát Thoát Mông Kha nên ông ta cùng với Sát Bát Nhi cùng phái sứ giả thỉnh hòa với triều đình Nguyên, Thoát Thoát Mông Cổ cũng chuyển sang thỉnh hòa với Nguyên, cùng với Y Nhi hãn vốn ủng hộ Nguyên, đến đây bốn hãn quốc lớn đều thừa nhận địa vị tông của triều Nguyên. Không lâu sau, Hãn quốc Oa Khoát Đài bị Hãn quốc Sát Hợp Đài và Nguyên Vũ Tông trước sau công diệt mà mất, Sát Bát Nhi đầu hàng triều Nguyên[20]

Vận động Hán hóa và chính biến

Nguyên Nhân Tông duy trì thi hành vận động Hán hóa, trong thời gian tại vị khôi phục khoa cử, sử xưng Diên Hựu phục khoa.

Nguyên Nhân Tông hết sức nỗ lực nhằm cải biến cục diện tài chính khô kiệt, chính chế hỗn loạn từ thời Nguyên Vũ Tông, ông thi hành chính sách "dĩ Nho trị quốc", đồng thời giảm bớt người thừa trong bộ máy, tăng cường trung ương tập quyền để chỉnh đốn triều chính. Ông từng lệnh Vương Ước đem "Đại học diễn nghĩa" dịch ra văn tự Mông Cổ, cho rằng đó là sách để trị thiên hạ. Ông cũng cho dịch các thư tịch như "Trinh Quán chính yếu" và "Tư trị thông giám" sang văn tự Mông Cổ, lệnh người Mông Cổ và người Sắc Mục đọc và học tập. Năm 1312, Nguyên Nhân Tông cho Nho sư của mình là Vương Ước được đặc bái làm Tập hiền đại học sĩ, đồng thời cho chấp thuận kiến nghị "hưng khoa cử" của Vương Ước, đến đây khôi phục chế độ khoa cử. Khoa cử lần này lấy Trình-Chu lý học làm nội dung khảo thí, sử xưng Diên Hựu phục khoa, cuối cùng chọn được 56 người như Hộ Đô Đáp Nhi, Trương Khởi Nham làm tiến sĩ[chú thích 2][20]. Ông cũng dựa nhiều vào văn thần người Hán, xử tử đám Thừa tướng Thác Khắc Thác, bài trừ những người có tư tưởng khác biệt trong triều. Trên phương diện tài chính, Nguyên Nhân Tông thủ tiêu phương sách kinh tế thời Nguyên Vũ Tông, vào năm 1314 cho thanh tra điền sản địa phương tại các nơi Giang Chiết, Giang Tây, Hà Nam, sử xưng Diên Hựu kinh lý. Nguyên Nhân Tông dùng Sàng Ngột Nhi thống quân, đánh bại Sát Hợp Đài hãn Dã Tiên Bất Hoa nhằm bình định khu vực Tây Bắc. Tuy nhiên, Nguyên Nhân Tông không ngăn cản được Thái hậu Đáp Kỉ can dự triều chính, cũng không chế tài được trọng thần Thiết Mộc Điệt Nhi vốn được Thái hậu trọng dụng tham tiền làm trái. Trên phương diện vấn đề kế thừa, Nguyên Nhân Tông để Vương Ước phụ trợ Hoàng thái tử Thạc Đức Bát Lạt, đồng thời nghe theo kiến nghị của Thiết Mộc Điệt Nhi mà phế trừ Vũ-Nhân chi ước. Ông cho con trưởng của Nguyên Vũ Tông là Hòa Thế Lạt đi đầy bằng cách để trấn thủ Vân Nam, cho con thứ của Nguyên Vũ Tông là Đồ Thiếp Mục Nhĩ bị đày ra đảo Hải Nam. Mùa đông cùng năm, cựu thần của Nguyên Vũ Tông do thấy phẫn nộ nên ủng hộ Hòa Thế Lạt làm phản, cuối cùng thất bại nên chạy đến Mạc Bắc, nương nhờ Hãn quốc Sát Hợp Đài. Năm 1320, Nguyên Nhân Tông từ trần, Hoàng thái tử Thạc Đức Bát Lạt tức vị, tức Nguyên Anh Tông[20].

Nguyên Anh Tông kế tục thi hành chính sách 'dĩ Nho trị quốc", tăng cường trung ương tập quyền và thể chế quan liêu như trong thời Nguyên Nhân Tông. Đồng thời vào năm 1323 hạ lệnh biên thành và ban bố pháp điển chính thức của triều Nguyên là "Đại Nguyên thông chế", tổng cộng có 2539 điều. Ông còn hạ lệnh loại bỏ thế lực của Thiết Mộc Điệt Nhi trong triều đình. Tuy nhiên, phái bảo thủ gồm người Mông Cổ và Sắc Mục hỗ trợ Thiết Mộc Điệt Nhi chán ghét tân chính của Nguyên Anh Tông, có ý phát động chính biến. Năm 1323, nghĩa tử của Thiết Mộc Điệt Nhi là Thiết Thất nhân thời cơ Nguyên Anh Tông đến Thượng Đô tránh nóng, tại Nam Pha ở phía nam Thượng Đô thích sát Nguyên Anh Tông và Tể tướng Bái Trụ, sử xưng Nam Pha chi biến, dòng hậu duệ của Nguyên Nhân Tông từ đó không có khả năng đoạt lại hoàng vị. Dã Tôn Thiết Mộc Nhi là con trưởng của Cam Ma Lạt, là người trấn thủ Hòa Lâm, ông suất binh nam hạ, giết bạn thần thích sát Nguyên Anh Tông đồng thời xưng đế, tức là Thái Định Đế[20].

Thái Định Đế triệu hồi Đồ Thiếp Mục Nhĩ từ Hải Nam về phong làm Hoài vương. Tháng bảy năm 1328, Thái Định Đế từ trần tại Thượng Đô, Thừa tướng Đảo Lạt Sa lập con của Thái Định Đế là A Tốc Cát Bát còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tức là Thiên Thuận Đế. Tuy nhiên, Yến Thiếp Mộc Nhi và Bá Nhan ủng hộ lập Chu vương Hòa Thế Lạt đang tại Mạc Bắc, Đồ Thiếp Mộc Nhĩ tại Giang Lăng, cùng năm Đồ Thiếp Mộc Nhĩ đến Đại Đô kế vị, tức là Nguyên Văn Tông. Yến Thiếp Mộc Nhi suất quân công nhập Thượng Đô, Thiên Thuận Đế không rõ kết cục[20]. Năm sau, Hòa Thế Lạt xưng đế tại Hòa Lâm, tức Nguyên Minh Tông. Nguyên Văn Tông từ bỏ đế vị, phái Yến Thiếp Mộc Nhi nghênh Nguyên Minh Tông kế vị, đồng thời được lập làm hoàng thái tử. Tuy nhiên, Yến Thiếp Mộc Nhi hạ độc giết Nguyên Minh Tông, phục vị cho Nguyên Văn Tông, sử xưng Thiên Lịch chi biến.

Thời kỳ Nguyên Văn Tông đại hưng văn trị, năm 1329 thiết lập Khuê Chương các, quản lý giảng giải sách kinh sử, khảo sát việc trị loạn trong lịch sử. Theo lệnh thì toàn bộ con cháu của huân quý đại thần đều phải đến Khuê Chương các học tập. Tại Khuê Chương các thiết lập Nghệ Văn giám, chuyên môn phụ trách dịch điển tịch Nho gia sang văn tự Mông Cổ, còn có chức năng giáo khám. Cùng năm, Nguyên Văn Tông hạ lệnh biên soạn "Nguyên kinh thế đại điển", hai năm thì biên thành, đây là một công trình đồ sộ ghi chép về chế độ phép tắc của triều Nguyên[20]. Tuy nhiên, Thừa tướng Yến Thiếp Mộc Nhi cậy công khinh thường triều đình, khiến triều chính thêm hủ bại. Năm 1332, Nguyên Văn Tông từ trần, nhằm tẩy sạch tội độc sát Nguyên Minh Tông, di chiếu lập con thứ của Minh Tông là Ý Lân Chân Ban còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tức Nguyên Ninh Tông. Tuy nhiên, Nguyên Ninh Tông tại vị không được hai tháng thì mất, không lâu sau thì Yến Thiếp Mộc Nhi cũng mất. Con trưởng của Nguyên Minh Tông là Thỏa Hoan Thiếp Mục Nhĩ được hoàng hậu của Văn Tông là Bốc Đáp Thất Lý triệu hồi từ Tĩnh Giang (nay là Quế Lâm, Quảng Tây) và lập làm hoàng đế, tức là Nguyên Huệ Tông, còn gọi là Nguyên Thuận Đế[20].

Huệ Tông mất nước

Đầu thời kỳ tại vị của Nguyên Huệ Tông, năm 1335 con của Yến Thiếp Mộc Nhi là Đường Kỳ Thế âm mưu lật đổ Huệ Tông để lập nghĩa tử của Văn Tông là Đáp Lạt Hải. Thừa tướng Bá Nhan đập tan phản loạn, song nhân vật này thuộc phái bảo thủ và khống chế triều chính, quyền lực rất lớn. Ông cấm chỉ người Hán tham chính đồng thời thủ tiêu khoa cử, do vậy phát sinh xung đột với Nguyên Huệ Tông. Năm 1340, Nguyên Huệ Tông dưới sự bang trợ của cháu Bá Nhan là Thoát Thoát cuối cùng phế truất Bá Nhan. Nguyên Huệ Tông cùng Thoát Thoát điều hành chính sự vào thời kỳ đầu, triều đình Nguyên thi hành một loạt biện pháp cải cách như ban hành pháp quy "Chí chính điều cách", khiến chính trị cách tân, mâu thuẫn xã hội hòa hoãn, sử xưng Chí Chính tân chính. Năm 1243, Nguyên Huệ Tông hạ lệnh biên soạn "Liêu sử", "Kim sử", "Tống sử", do Hữu thừa tướng Thoát Thoát chủ trì, hai năm thì biên thành. Tuy nhiên, giai đoạn sau Nguyên Huệ Tông lười nhác chính sự, dẫn đến việc vào năm 1350 phát sinh thiên tại nhân họa rồi dẫn đến dân biến[22].

Hậu kỳ của triều Nguyên, đặc biệt là từ năm 1340 đến 1350, trong nước thường phát sinh hạn hán, ôn dịch và thủy tai, khu vực Hoàng Hà chịu nạn lụt hết sức nghiêm trọng. Trong khi đó, triều đình Nguyên không ngừng thu các loại thuế, khiến sinh hoạt của bách tính càng thêm gian khổ, do vậy Bạch Liên giáo dần thịnh hành, trở thành thế lực đối kháng với triều Nguyên. Ngay từ năm 1325 đã phát sinh sự kiện Triệu Sử Tư, Quách Bồ Rá lãnh đạo khởi sự vũ trang tại Hà Nam. Năm 1338, tại Viên Châu thuộc Giang Tây (nay là Nghi Xuân, Giang Tây), nhóm giáo đồ Bạch Liên giáo dưới quyền Bành hòa thượng, Chu Tử Vượng khởi nghĩa thất bại, Bành hòa thượng chạy đến Hoài Tây. Năm 1350, triều đình Nguyên hạ lệnh cải cách tiền tệ, cho đúc "Chí Chính thông bảo", đồng thời phát hành lượng lớn "Trung Thống nguyên bảo giao sao" mới, khiến vật giá gia tăng nhanh chóng. Năm sau, Nguyên Huệ Tông phái Giả Lỗ trị thủy Hoàng Hà, muốn phục hồi dòng chảy cũ, huy động sử dụng tới 15 vạn dân phu, 2 vạn binh sĩ. Tuy nhiên, quan lại thừa cơ thủ lợi, gây bất mãn trong dân chúng. Các thủ lĩnh Bạch Liên giáo là Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông quyết định vào tháng 5 sẽ lãnh đạo giáo chúng khởi sự, song âm mưu bị lộ nên Hàn Sơn Đồng bị giết. Lưu Phúc Thông lập con của Hàn Sơn Đồng là Hàn Lâm Nhi làm thủ lĩnh tối cao, nói rằng Hàn Sơn Đồng là cháu đời thứ tám của Tống Huy Tông, đề ra kỳ hiệu "phục Tống", lấy khăn đỏ làm dấu hiệu. Sau đó, Quách Tử Hưng tại Hào Châu thuộc An Huy khởi sự, nhóm Chi Ma Lý chiếm lĩnh Từ Châu, đây là Hồng Cân quân hệ phía đông. Tại Hồng Cân quân hệ phía tây, Bành Oánh Ngọc, Trâu Phổ ThắngTừ Thọ Huy tại Kỳ Châu thuộc Hồ Bắc khởi sự, đặt quốc hiệu là "Thiên Hoàn". Thế lực của Hồng Cân quân có ở khắp nơi tại Giang Bắc, Giang Nam, Lưỡng Hồ và Tứ Xuyên, ngoài Hồng Cân quân còn có lực lượng như của Trương Sĩ Thành khởi sự, dân biến báo trước sự diệt vong của triều Nguyên[23].

Triều đình Nguyên phái binh trấn áp Hồng Cân quân tại các nơi, Thừa tướng Thoát Thoát tự suất quân nam hạ công hãm quân Chi Ma Lý tại Từ Châu, trong một thời gian áp chế được quân dân biến. Tuy nhiên, vào năm 1354 Thoát Thoát khi tấn công quân Trương Sĩ Thành tại Cao Bưu thì bị đại thần triều đình hạch hỏi nên không giành được chiến thắng chung cuộc. Lực lượng của Từ Thọ Huy cuối cùng phân liệt thành lực lượng dưới quyền Trần Hữu Lượng tại Lưỡng Hồ và lực lượng dưới quyền Minh Ngọc Trân tại Tứ Xuyên. Bộ hạ Chu Nguyên Chương của Quách Tử Hưng tại Lưỡng Hoài vào năm 1356 lấy Nam Kinh làm căn cứ địa bắt đầu mở rộng địa bàn, đến năm 1363 tiến hành tác chiến với Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ Lưỡng Hồ, cuối cùng trong trận hồ Bà Dương thì thu được thắng lợi. Năm 1365, sau khi chiếm lĩnh Lưỡng Hồ, Chu Nguyên Chương vào mùa đông đông tiến nhằm tiến công Trương Sĩ Thành đang chiếm cứ duyên hải Giang Tô. Năm 1367, sau khi bình định Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Trương tiếp tục nam hạ áp chế Phương Quốc Trân tại Chiết Giang, đến đây Giang Nam không còn thế lực nào phản kháng Chu Nguyên Chương. Ngoài ra, Phúc Kiến từ năm 1357 đến năm 1368 phát sinh biến loạn của quân Sắc Mục, sử xưng loạn Ispah. Đồng thời kỳ, quân Nguyên dưới quyền Sát Hãn Thiếp Mộc NhiLý Tư Tề phản kích Hồng Cân quân tại phương bắc. Năm 1363 Hồng Cân quân tại phương bắc cuối cùng trong chiến dịch An Phong chiến bại trước Trương Sĩ Thành lúc này đã hàng Nguyên, Lưu Phúc Thông chiến tử còn Hàn Lâm Nhi đi về phía nam nương nhờ Chu Nguyên Chương song sau đó bị giết.

Chu Nguyên Chương sau khi thống nhất Giang Nam đến năm 1367 hạ lệnh Bắc phạt, ông phái Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân suất quân Minh phân biệt tiến công Sơn Đông và Hà Nam, đồng thời phong tỏa Đồng Quan nhằm để phòng quân Nguyên tại Quan Trung tiếp viện cho Trung Nguyên. Năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng là hoàng đế, lập ra nhà Minh. Tháng tám năm 1368, quân Minh công hãm Đại Đô của Nguyên, Nguyên Huệ Tông đào thoát về bắc, sách sử coi đây là năm triều Nguyên kết thúc. Tuy nhiên, triều đình Nguyên vẫn tại Thượng Đô, sách sử gọi triều đình Nguyên từ đó về sau là Bắc Nguyên. Triều đình Minh nhận định Nguyên Huệ Tông thuận thiên minh mệnh, do vậy đặt thụy hiệu là Nguyên Thuận Đế[22]

Thời kỳ Bắc Nguyên

Năm 1368, triều đình Nguyên đào thoát về thảo nguyên Mông Cổ, Nguyên Huệ Tông thoái đến Thượng Đô, năm sau lại đến Ứng Xương. Ông duy trì sử dụng quốc hiệu "Đại Nguyên", sử xưng Bắc Nguyên. Đương thời, ngoại trừ Nguyên Huệ Tông chiếm cứ Mạc Nam và Mạc Bắc, tại Quan Trung có tướng Nguyên Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi trú thủ tại Định Tây thuộc Cam Túc, triều đình Nguyên còn thống trị khu vực Đông Bắc và Vân Nam. Nhằm chiếm lĩnh phương bắc, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn cách phân binh làm hai lộ, đó là Bắc phạt lần một. Nguyên Huệ Tông sau khi chiến bại vào năm 1370 từ trần tại Ứng Xương, con là Nguyên Chiêu Tông sau khi tức vị thì đào thoát về phía bắc đến Hòa Lâm thuộc Mạc Bắc. Tướng Minh là Phùng Thắng đoạt lất khu vực Cam Túc. Tuy nhiên, tướng Nguyên Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tại Mạc Bắc nhiều lần tác chiến với các tướng Minh như Từ Đạt. Minh Thái Tổ từng nhiều lần viết thư chiêu hàng song Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bác bỏ, được Chu Nguyên Chương gọi là "đương thế kỳ nam tử". Tháng tư năm 1378, Nguyên Chiêu Tông từ trần, em là Nguyên Thiên Nguyên Đế kế vị tiếp tục đối kháng với triều Minh, nhiều lần xâm phạm lãnh thổ của Minh[24].

Tại khu vực Đông Bắc và Vân Nam, năm 1371 Liêu Dương hành tỉnh bình chương Lưu Ích hàng Minh, triều Minh chiếm Liêu Ninh. Tuy nhiên lãnh thổ còn lại của khu vực Đông Bắc vẫn do Thái úy Nạp Cáp Xuất của Nguyên khống chế, Nạp Cáp Xuất đóng 20 vạn quân tại Kim Sơn (nay là khu vực phía nam sông Bắc Liêu thuộc Xương Đồ, Liêu Ninh), đối kháng với quân Minh trong cả thập niên, nhiều lần cự tuyệt chiêu phủ của triều Minh. Năm 1387, Phùng Thắng, Phó Hữu Đức, Lam Ngọc phát động Bắc phạt lần thứ năm, mục tiêu là công chiếm Kim Sơn của Nạp Cáp Xuất. Trải qua nhiều lần giao chiến, đến tháng 10 năm 1387 thì Nạp Cáp Xuất đầu hàng Lam Ngọc, triều Minh chiếm lĩnh khu vực Đông Bắc. Tướng Nguyên trấn thủ Vân Nam là Lương vương Bả Táp Lạt Ngõa Nhĩ Mật, sau khi triều đình Nguyên triệt thoái về thảo nguyên vẫn tiếp tục trung thành. Năm 1371, Minh Thái Tổ phái đám Thang Hòa lĩnh binh bình định Minh Ngọc Trân đang chiếm cứ Tứ Xuyên, đồng thời khuyến hàng Lương vương không thành. Tháng 12 năm 1381, quân Minh công nhập Vân Nam, đến năm 1382 thì Lương vương đào thoát khỏi Côn Minh rồi tự sát, sau đó quân Minh công khắc Đại Lý, bình định khu vực Vân Nam[24].

Nhằm triệt để loại trừ thế lực Bắc Nguyên, Minh Thái Tổ vào tháng 5 năm 1388 lệnh cho Lam Ngọc suất lĩnh 15 vạn quân tiến hành Bắc phạt lần thứ sáu. Quân Minh vượt qua sa mạc Gobi đến Bộ Ngư Nhân Hải (tức hồ Buir) đánh tan quân Bắc Nguyên, bắt hơn tám vạn người, Nguyên Thiên Nguyên Đế và con trưởng của ông là Thiên Bảo Nô đào tẩu, song ấu tử Địa Bảo Nô bị quân Minh bắt giữ, đến đây quốc thế Bắc Nguyên đại suy. Năm 1388, Nguyên Thiên Nguyên Đế bị hậu duệ của A Lý Bất Ca là Dã Tốc Điệt Nhĩ sát hại, Bắc Nguyên không còn tiếp tục sử dụng niên hiệu cùng quốc hiệu Đại Nguyên (có thuyết nói rằng là vào năm 1402 khi Quỷ Lực Xích giết Nguyên Đế Khôn Thiếp Mộc Nhi sau đó cải quốc hiệu sang Thát Đát), Bắc Nguyên mất[24].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Nguyên http://www.britannica.com/EBchecked/topic/719243 http://big5.china.com/gate/big5/military.china.com... http://military.china.com/zh_cn/history2/06/110275... http://rcs.wuchang-edu.com/RESOURCE/CZ/CZDL/DLBL/D... http://rcs.wuchang-edu.com/RESOURCE/GZ/GZDL/DLBL/D... http://www.archive.org/stream/06054741.cn#page/n11... http://www.archive.org/stream/06054742.cn#page/n6/... //dx.doi.org/10.1111%2F0020-8833.00053 //zh.wikisource.org/wiki/%E5%BB%BA%E5%9C%8B%E8%99%... http://www.chinese.ncku.edu.tw/getfile/P_200710041...